CHÍNH PHỦ
Số:262 /BC-CP
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày23tháng 11 năm 2011
|
BÁO CÁO
Thực trạng hoạt động của tập đoàn, tổng công ty nhà nước
giai đoạn 2006 -2010 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp
giai đoạn 2011 – 2015
Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện Nghị quyết số 42/2009/QH12 ngày 27/11/2009 của Quốc hội về nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Chính phủ báo cáo Quốc hội thực trạng hoạt động của tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2006 – 2010 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2011 – 2015 như sau:
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về tình hình tài chính
Mặc dù trong những năm qua tình hình kinh tế thế giới cũng như trong nước gặp nhiều khó khăn, nhưng các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã có nhiều cố gắng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, có lãi (tuy không cao), bảo đảm việc làm, cung ứng các sản phẩm, hàng hóa và các dịch vụ thiết yếu cho xã hội, góp phần cùng với Nhà nước bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội (Vinashin đang trong quá trình tái cơ cấu nên tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh không tập hợp trong báo cáo này), cụ thể:
a) Vốn chủ sở hữu
Năm 2006 khi mới hình thành một số tập đoàn kinh tế, quy mô vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty là 317.647 tỷ đồng, đến hết năm 2010 vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty là 653.166 tỷ đồng, bằng 204% so với năm 2006.
Vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty hàng năm tăng chủ yếu từ nguồn lợi nhuận sau thuế; đánh giá lại tài sản, thặng dư vốn thu được trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp thành viên, đơn vị phụ thuộc của tập đoàn, tổng công ty.
b) Tổng tài sản
– Năm 2006, tổng tài sản của các tập đoàn, tổng công ty là 751.698 tỷ đồng, đến hết năm 2010, tổng tài sản của các tập đoàn, tổng công ty là 1.799.317 tỷ đồng, bằng 238 % so với năm 2006.
Trong cơ cấu về tài sản, tỷ trọng tài sản cố định chiếm gần 40% tổng tài sản, thể hiện các tập đoàn, tổng công ty đã tăng cường đầu tư, đổi mới tài sản cố định, hiện đại hoá công nghệ, thiết bị để phục vụ trực tiếp và gián tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
c) Nợ phải trả
Theo quy định hiện hành, các tập đoàn, tổng công ty được quyền chủ động huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh trong phạm vi hệ số nợ phải trả trên vốn điều lệ không vượt quá 3 lần. Tuy nhiên, để đánh giá đúng tình hình huy động vốn trên khả năng tài chính, nợ phải trả cần được tính trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty.
Năm 2006, tổng số nợ phải trả của các tập đoàn, tổng công ty là 419.991 tỷ đồng, bình quân bằng 1,32 lần vốn chủ sở hữu, đến hết năm 2010, tổng số nợ phải trả của các tập đoàn, tổng công ty là 1.088.290 tỷ đồng, bình quân bằng 1,67 lần vốn chủ sở hữu.
Xét từng tập đoàn, tổng công ty thì có 30 tập đoàn, tổng công ty tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó: Có 07 tổng công ty trên 10 lần; Có 09 tổng công ty trên 5 – 10 lần; Có 14 tổng công ty từ 3 – 5 lần.
2. Về kết quả sản xuất kinh doanh
a) Doanh thu
– Năm 2007, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty là 642.004 tỷ đồng, tăng 29 % so với thực hiện năm 2006.
– Năm 2008, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty là 842.758 tỷ đồng, tăng 31 % so với thực hiện năm 2007.
– Năm 2009, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty là 1.098.553 tỷ đồng, tăng 30 % so với thực hiện năm 2008.
– Năm 2010, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty là 1.488.273 tỷ đồng, tăng 35 % so với thực hiện năm 2009.
b) Lợi nhuận
– Năm 2007, lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty là 71.491 tỷ đồng, tăng 6 % so với thực hiện năm 2006.
– Năm 2008, lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty là 88.478 tỷ đồng, tăng 24 % so với thực hiện năm 2007.
– Năm 2009, lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty là 97.537 tỷ đồng, tăng 10 % so với thực hiện năm 2008.
– Năm 2010, lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty là 162.910 tỷ đồng, tăng 66 % so với thực hiện năm 2009.
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của hầu hết các tập đoàn, tổng công ty trong giai đoạn vừa qua đều có lãi như: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam; Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam; Tập đoàn Viễn thông Quân đội; Tập đoàn Công nghiệp Than – khoáng sản Việt Nam; Tập đoàn Cao su Việt Nam; Tổng công ty Lương thực miền Bắc; Tổng công ty Lương thực miền Nam; Tổng công ty Hoá chất Việt Nam (nay là Tập đoàn); Tổng công ty Sông Đà (nay là Tập đoàn); Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (nay là Tập đoàn); Tổng công ty Du lịch Sài Gòn; Tổng công ty Thương mại Sài Gòn; Tổng công ty Bến Thành; Tổng công ty Công nghiệp Sài Gòn;…
Tuy nhiên, trong những năm vừa qua do công tác quản trị, giá bán một số mặt hàng chưa được thực hiện hoàn toàn theo giá thị trường, khủng hoảng về tài chính toàn cầu… là những yếu tố ảnh hưởng đến một số tập đoàn, tổng công ty vài năm trở lại đây kinh doanh thua lỗ như:
+ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN): Yếu tố kết cấu sản lượng điện sản xuất và mua ngoài của EVN ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của EVN; nếu thời tiết thuận lợi, mưa nhiều đầu nguồn thì sản lượng thuỷ điện nhiều; trong khi đó giá bán điện của các nhà máy thuỷ điện thấp hơn so với nhiệt điện, đồng thời phải tăng thêm cả phát điện từ dầu, vì vậy kết cấu sản lượng điện từ thuỷ điện là một yếu tố gần như quyết định kết quả kinh doanh của EVN (năm 2010, theo đề án, sản lượng phát điện từ dầu là 822 triệu KWh, thực tế là 2.488,5 triệu KWh).
Chênh lệch tỷ giá cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của Tập đoàn như chi phí mua điện bằng ngoại tệ tăng; nhiều khoản vay đầu tư của EVN bằng ngoại tệ nên khi tỷ giá tăng thì chi phí lãi vay cũng tăng; đồng thời khoản chênh lệch tỷ giá do cuối năm đánh giá lại các khoản vay có gốc ngoại tệ sẽ tăng rất lớn. Nếu tính đúng theo quy định thì từ năm 2008 đến nay kết quả kinh doanh của EVN năm nào cũng lỗ, nguyên nhân chính do chênh lệch tỷ giá. Tính đến 31/12/2010 EVN chưa phân bổ được vào chi phí sản xuất kinh doanh khoản lỗ chênh lệch tỷ giá luỹ kế là 15.463 tỷ đồng.
Đối với giá bán điện cho các hộ dùng điện vẫn thực hiện theo giá cũ là 1.077 đ/KWh. Từ 01/3/2011, giá bán điện mới được tăng lên là 1.242 đ/KWh, mức tăng này vẫn chưa thể bù đắp chi phí (theo tính toán của EVN, giá thành điện bình quân 6 tháng đầu năm 2011 là 1.303,40 đ/kWh, ước cả năm 2011 là 1.350,20 đ/kWh).
Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan xây dựng phương án điều chỉnh giá địên theo lộ trình thích hợp để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
+ Tổng công ty Hàng hải Việt Nam: Hàng hoá và giá cước vận chuyển giảm mạnh do suy giảm kinh tế và khủng hoảng tài chính, trong khi chi phí đầu vào tăng cao, đặc biệt chi phí nguyên liệu, lãi vay chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí đầu tư đội tàu; mặt khác, khi tiếp nhận các doanh nghiệp, dự án từ Vinashin theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thì nợ phải trả của Tổng công ty tăng làm chi phí lãi vay tăng thêm nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty.
+ Ngoài ra, một số công ty con thuộc tập đoàn, tổng công ty có lỗ phát sinh như: Tập đoàn Dệt may Việt Nam; Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị; Tổng công ty XDCTGT 1; Tổng công ty Chè Việt Nam; Tổng công ty Đầu tư phát triển đô thị và KCN; Tổng công ty Xăng dầu Quân đội; Tổng công ty 15 – Bộ Quốc phòng; Tổng công ty Công nghiệp Sài Gòn.
Đối với một số tổng công ty lỗ từ thời gian trước để lại như Tổng công ty Dâu tằm tơ Việt Nam, Tổng công ty Xây dựng đường thuỷ,… Chính phủ đã có chỉ đạo các Bộ chuyên ngành xem xét xử lý theo thẩm quyền. Trường hợp không xử lý được thì thực hiện giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật.
Tính đến 31/12/2010, lỗ phát sinh trong năm 2010 là 1.116 tỷ đồng; lỗ luỹ kế là 26.123 tỷ đồng.
c) Nộp ngân sách
– Năm 2007, nộp ngân sách nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty là 133.108 tỷ đồng, giảm 8 % so với thực hiện năm 2006.
– Năm 2008, nộp ngân sách nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty là 223.260 tỷ đồng, tăng 67% so với thực hiện năm 2007 (do giá dầu thế giới tăng đột biến, nên tăng nguồn thu từ dầu thô). Nếu loại trừ yếu tố tăng đột biến từ nguồn thu dầu thô (khoảng 32.100 tỷ đồng), thì nộp ngân sách năm 2008 chỉ tăng40% so với thực hiện năm 2007.
– Năm 2009, nộp ngân sách nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty là 189.991 tỷ đồng, giảm 15 % so với thực hiện năm 2008 (do biến động của giá dầu trên thế giới, nên nguồn thu từ dầu giảm);
– Năm 2010, nộp ngân sách nhà nước của các tập đoàn, tổng công ty là 231.526 tỷ đồng, tăng 21 % so với thực hiện năm 2009.
Hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được nâng cao dần qua các năm, tạo sự tăng trưởng về doanh thu, lợi nhuận, làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần cân đối nguồn thu để thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng, đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó, nhiều tập đoàn, tổng công ty liên tục có lãi nên số nộp ngân sách nhà nước lớn như: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam; Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam; Tập đoàn Viễn thông Quân đội; Tập đoàn Công nghiệp Than – khoáng sản Việt Nam; Tập đoàn Cao su Việt Nam; Tổng công ty Lương thực miền Bắc; Tổng công ty Lương thực miền Nam; Tập đoàn Hoá chất Việt Nam; Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam; Tổng công ty Thương mại Sài Gòn; Tổng công ty Công nghiệp Sài Gòn; Tổng công ty Khánh Việt…
Tuy vậy, hiệu quả đầu tư và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước nói chung và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước nói riêng còn chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tiềm năng của doanh nghiệp.
3. Về đầu tư vào một số lĩnh vực ngoài ngành kinh doanh chính
Giá trị các khoản đầu tư vào chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư, ngân hàng là: Năm 2006 (6.114 tỷ đồng); Năm 2007 (14.441 tỷ đồng); Năm 2008 (19.840 tỷ đồng); Năm 2009 (14.991 tỷ đồng); Năm 2010 (21.814 tỷ đồng). Trong đó:
a) Đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 3.576 tỷ đồng vào lĩnh vực chứng khoán; năm 2009 là 986 tỷ đồng; năm 2008 là 1.697 tỷ đồng; năm 2007 là 1.328 tỷ đồng và năm 2006 là 707 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như sau:
STT
|
Chỉ tiêu
|
Tỷ lệ % đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán so với các chỉ tiêu
|
Năm 2006
|
Năm 2007
|
Năm 2008
|
Năm 2009
|
Năm 2010
|
1. |
Vốn Chủ sở hữu |
0,22
|
0,32
|
0,35
|
0,18
|
0,55
|
2. |
Tổng tài sản |
0,09
|
0,13
|
0,14
|
0,07
|
0,20
|
b) Đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 2.236 tỷ đồng vào lĩnh vực bảo hiểm; năm 2009 là 1.578 tỷ đồng; năm 2008 là 3.007 tỷ đồng; năm 2007 là 2.655 tỷ đồng và năm 2006 là 758 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như sau:
STT
|
Chỉ tiêu
|
Tỷ lệ % đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm so với các chỉ tiêu
|
Năm 2006
|
Năm 2007
|
Năm 2008
|
Năm 2009
|
Năm 2010
|
1. |
Vốn Chủ sở hữu |
0,24
|
0,65
|
0,62
|
0,28
|
0,34
|
2. |
Tổng tài sản |
0,10
|
0,26
|
0,25
|
0,11
|
0,12
|
c) Đầu tư vào bất động sản
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 5.379 tỷ đồng vào lĩnh vực bất động sản; năm 2009 là 2.999 tỷ đồng; năm 2008 là 2.285 tỷ đồng; năm 2007 là 1.431 tỷ đồng và năm 2006 là 211 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực bất động sản so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như sau:
STT
|
Chỉ tiêu
|
Tỷ lệ % đầu tư vào lĩnh vực bất động sản so với các chỉ tiêu
|
Năm 2006
|
Năm 2007
|
Năm 2008
|
Năm 2009
|
Năm 2010
|
1. |
Vốn Chủ sở hữu |
0,07
|
0,35
|
0,47
|
0,54
|
0,83
|
2. |
Tổng tài sản |
0,03
|
0,14
|
0,19
|
0,21
|
0,30
|
d) Đầu tư vào Quỹ đầu tư
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 495 tỷ đồng vào Quỹ đầu tư; năm 2009 là 694 tỷ đồng; năm 2008 là 1.424 tỷ đồng; năm 2007 là 1.050 tỷ đồng và năm 2006 là 600 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào các Quỹ đầu tư so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như sau:
STT
|
Chỉ tiêu
|
Tỷ lệ % đầu tư vào Quỹ đầu tư so với các chỉ tiêu
|
Năm 2006
|
Năm 2007
|
Năm 2008
|
Năm 2009
|
Năm 2010
|
1. |
Vốn Chủ sở hữu |
0,19
|
0,26
|
0,29
|
0,13
|
0,08
|
2. |
Tổng tài sản |
0,08
|
0,10
|
0,12
|
0,05
|
0,03
|
đ) Đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng
Đến cuối năm 2010, các tập đoàn, tổng công ty đầu tư 10.128 tỷ đồng vào lĩnh vực ngân hàng; năm 2009 là 8.734 tỷ đồng; năm 2008 là 11.427 tỷ đồng; năm 2007 là 7.977 tỷ đồng và năm 2006 là 3.838 tỷ đồng.
Tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng so với: Vốn Chủ sở hữu và Tổng tài sản như sau:
STT
|
Chỉ tiêu
|
Tỷ lệ % đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng so với các chỉ tiêu
|
Năm 2006
|
Năm 2007
|
Năm 2008
|
Năm 2009
|
Năm 2010
|
1. |
Vốn Chủ sở hữu |
1,21
|
1,94
|
2,36
|
1,57
|
1,56
|
2. |
Tổng tài sản |
0,51
|
0,79
|
0,95
|
0,60
|
0,57
|
Trong thời gian vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước dừng và rút vốn đầu tư vào các lĩnh vực nêu trên (Điều 12 Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp khác ban hành kèm theo Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 5/02/2009 của Chính phủ; công văn số 3780/VPCP-ĐMDN ngày 5/02/2008 và công văn số 6207/VPCP-KTTH ngày 01/9/2010 của Văn phòng Chính phủ). Trường hợp đặc biệt có nhu cầu đầu tư vượt quy định phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trong năm 2009 và 2010 phần vốn đầu tư của một số tập đoàn, tổng công ty vào các lĩnh vực nêu trên tăng so với năm trước là do tình hình kinh tế thế giới và trong nước suy giảm, lạm phát cao; các công ty cổ phần (thuộc các lĩnh vực nêu trên) do áp lực về vốn đã thực hiện tăng vốn điều lệ. Tuy nhiên, do các nhà đầu tư khó khăn về tài chính, mặt khác công ty cổ phần cũng khó khăn về vốn để duy trì hoạt động và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nên nhiều doanh nghiệp đã tăng vốn điều lệ theo hình thức: chia cổ tức bằng cổ phiếu, thưởng cổ phiếu và cho các cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phần phát hành thêm, nên cơ bản giá trị đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty tăng nhưng tỷ lệ vốn góp không thay đổi hoặc không vượt mức quy định của Chính phủ. Đối với việc thực hiện quyền mua cổ phần phát hành thêm cho cổ đông hiện hữu, các tập đoàn, tổng công ty đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận như: Tập đoàn Viettel; Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn; Tập đoàn Hoá chất Việt Nam; Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam…, nhưng cũng có những tập đoàn, tổng công ty do khả năng tài chính hoặc nếu tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực nêu trên sẽ vượt mức quy định, nên Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo không cho phép tiếp tục đầu tư mua thêm cổ phần ở những lĩnh vực này như: Tổng công ty Thành An; Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam.
Một số tập đoàn, tổng công ty khi thực hiện quyền mua cổ phần phát hành thêm hoặc tiếp tục góp vốn vào các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán nhưng không báo cáo Thủ tướng Chính phủ như: Tập đoàn Công nghiệp Than – khoáng sản Việt Nam; Tổng công ty Giấy Việt Nam; Tập đoàn Cao su Việt Nam; Tổng công ty Lương thực miền Nam.
Tỷ lệ đầu tư vốn vào các lĩnh vực ngoài ngành kinh doanh chính nói trên của các tập đoàn, tổng công ty đều trong các giới hạn quy định. Tuy nhiên cũng đã làm phân tán nguồn lực, nhất là vào các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, bất động sản, chứng khoán vẫn chứa đựng nhiều rủi ro. Đồng thời phần nào làm méo mó nền kinh tế, phát sinh các tiêu cực, gian lận như Công ty cho thuê tài chính II.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhiều tập đoàn, tổng công ty đã cơ cấu lại để giảm dần tỷ lệ vốn góp vào các lĩnh vực nêu trên. Tuy nhiên, do kinh tế thế giới cũng như trong nước suy giảm nên việc thoái vốn ở những lĩnh vực này chưa hoàn thành được mục tiêu đề ra.
4. Về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
Giai đoạn 2006-2010, cả nước sắp xếp 1.547 doanh nghiệp, trong đó chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 577 doanh nghiệp, cổ phần hóa 697 doanh nghiệp, còn lại là các hình thức giao, bán, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản.
Qua sắp xếp, DNNN đã được cơ cấu lại một cách cơ bản, số lượng DNNN giảm mạnh (tính đến 30/9/2011, doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu còn khoảng 1.225 doanh nghiệp), tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ được chuyển thành công ty TNHH một thành viên. Các nông, lâm trường quốc doanh cũng được chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Các tổng công ty nhà nước đã được sắp xếp lại, kiện toàn về mô hình tổ chức quản lý, đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Hầu hết các tổng công ty nhà nước đã được chuyển đổi sang hoạt động hình thức công ty mẹ – công ty con. Đã cổ phần hóa 16 tổng công ty nhà nước (trong đó có 3 ngân hàng thương mại quốc doanh). Một số tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động trong lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh và khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả đã được tổ chức lại để hình thành các tập đoàn kinh tế nhà nước.
5. Về thí điểm kiểm kê, đánh giá lại tài sản và vốn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
Ngày 10/03/2011 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 352/QĐ-TTg về việc thí điểm kiểm kê và đánh giá lại tài sản và vốn của một số doanh nghiệp do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ tại thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Trong đó, đối tượng thí điểm kiểm kê ngày 01/7/2011 là doanh nghiệp thuộc các tập đoàn, tổng công ty do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và được các Bộ quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt trên cơ sở đề nghị của các tập đoàn, tổng công ty.
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 87/2011/TT-BTC ngày 17/06/2011 hướng dẫn kiểm kê, đánh giá lại tài sản và vốn của doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ theo Quyết định 352/QĐ-TTg.
Các doanh nghiệp tổ chức kiểm kê, đánh giá lại tài sản và vốn có trách nhiệm lập, gửi báo cáo kiểm kê tới Công ty mẹ (tập đoàn, tổng công ty) trước ngày 30/10/2011. Công ty mẹ (tập đoàn, tổng công ty) thực hiện thẩm định, tổng hợp, phân tích báo cáo, gửi Bộ quản lý ngành (hoặc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) để phê duyệt kết quả kiểm kê đánh giá lại tài sản và vốn, đồng thời gửi Bộ Tài chính để theo dõi và giám sát trước 30/11/2011.
Các Bộ quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có doanh nghiệp thuộc đối tượng thí điểm kiểm kê và đánh giá lại tài sản xem xét, phê duyệt kết quả kiểm kê, đánh giá lại tài sản và vốn của từng doanh nghiệp, gửi thông báo phê duyệt kết quả kiểm kê cho Công ty mẹ (tập đoàn, tổng công ty), doanh nghiệp thực hiện kiểm kê, đồng thời gửi Bộ Tài chính trước ngày 01/01/2012.
Bộ Tài chính có trách nhiệm phân tích, đánh giá và tổng hợp các vấn đề cần khắc phục trong đợt thí điểm kiểm kê ngày 01/7/2011, hướng dẫn xử lý kết quả kiểm kê, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý I/2012 để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc tổng kiểm kê và đánh giá lại tài sản và vốn đối với tất cả các doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu.
II. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
1. Ưu điểm
– Các quy định liên quan đến công tác quản lý vốn, tài sản tại các doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu trong thời gian qua cơ bản đã tạo lập môi trường và điều kiện hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp. Thông qua chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế – xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và phát triển; thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp gián tiếp thông qua việc cung cấp thông tin thị trường, pháp lý; sử dụng các công cụ quản lý nhà nước như chính sách thuế, tín dụng, tiền lương để điều tiết, định hướng phát triển doanh nghiệp; kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chính sách pháp luật chủ trương định hướng của nhà nước đối với doanh nghiệp.
– Đa số các tập đoàn, tổng công ty kinh doanh có hiệu quả, đóng góp số thu cho ngân sách nhà nước. Nhiều tập đoàn, tổng công ty thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ giao trong việc bảo đảm việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ thiết yếu của nền kinh tế đối với một số lĩnh vực như: khai thác và cung cấp than cho cả nước; cung ứng nhu cầu tiêu thụ điện của toàn xã hội; kinh doanh xăng dầu phục vụ tiêu dùng; sản xuất xi măng; sản xuất và cung ứng nhu cầu thép; thực hiện xuất khẩu và điều tiết giá lúa gạo, thu mua lúa, gạo, cà phê cho người nông dân…
– Các tập đoàn, tổng công ty đóng vai trò quan trọng trong việc bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, đảm bảo ổn định xã hội, ngăn ngừa sự suy giảm kinh tế, duy trì việc làm cho người lao động, không để xảy ra đình công và bảo đảm thu nhập cho người lao động; đầu tư các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, thực hiện các nhiệm vụ công ích ở các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, hỗ trợ các địa phương nghèo.
– Các tập đoàn, tổng công ty thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao đầu tư những dự án trọng điểm, quan trọng phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn của đất nước, những dự án lớn hoặc hiệu quả về kinh tế thấp nhưng ý nghĩa chính trị và hiệu quả về xã hội lại rất lớn mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không có đủ khả năng làm hoặc không tham gia, đặc biệt những dự án có ý nghĩa quan trọng trong việc thay đổi cơ cấu kinh tế vùng miền theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước như: Thủy điện Sơn La; Nhà máy Lọc dầu Dung Quất; hệ thống thông tin liên lạc; mạng lưới điện tại các vùng sâu, vùng xa…
2. Những bất cập, khó khăn
– Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010, các Nghị định của Chính phủ về quản lý tài chính đối với công ty nhà nước cũng hết hiệu lực thi hành. Để các công ty nhà nước chuyển sang hoạt động chung theo Luật Doanh nghiệp với các loại hình doanh nghiệp khác, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên và tổ chức quản lý công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
– Chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn chồng chéo, chưa quy định rõ cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý, giám sát công tác: tổ chức nhân sự; xây dựng phê duyệt hoặc thẩm định trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương hướng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh; quản lý, giám sát việc sử dụng vốn, tài sản của các doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu.
– Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp vừa chưa bao quát, chưa thực hiện được theo định kỳ, vừa chồng chéo. Một số doanh nghiệp chưa được thực hiện kiểm tra, thanh tra, kiểm toán thường xuyên, mặt khác không ít doanh nghiệp trong cùng một năm phải tiếp nhiều đoàn thanh tra, kiểm tra phần nào đã ảnh hưởng đến công tác quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc phối hợp, sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chưa thực sự hiệu quả (cả trong trường hợp cùng một nội dung kiểm tra). Việc thực hiện các kết luận kiểm tra, thanh tra, kiểm toán chưa nghiêm và chưa kịp thời.
– Công tác quản trị, điều hành của nhiều tập đoàn, tổng công ty còn nhiều hạn chế; chậm thay đổi để phù hợp với yêu cầu quản trị doanh nghiệp theo cơ chế thị trường và xu thế hội nhập; Nhiều tập đoàn, tổng công ty chậm đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ, chưa thực sự năng động trong việc cạnh tranh, tiếp cận thị trường đối với hàng hoá, sản phẩm của mình, chưa chú trọng phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp, có tay nghề cao.
– Quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu tại một số tổng công ty còn nhỏ và chậm, một số tổng công ty hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp, kinh doanh thua lỗ, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
– Việc huy động quá nhiều vốn để thực hiện đầu tư, đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, thành lập nhiều công ty con, công ty liên kết hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề của một số tập đoàn, tổng công ty trong khi năng lực quản lý và khả năng tài chính có hạn đã dẫn tới hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu cao, ảnh hưởng không tốt đến năng lực tài chính và hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp.
– Một số tập đoàn, tổng công ty trong những năm vừa qua đã tham gia góp vốn vào ngân hàng thương mại cổ phần, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty bảo hiểm, bất động sản. Việc đầu tư này chưa thực sự hợp lý khi nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính còn hạn chế. Mặt khác việc đầu tư vào những lĩnh vực này ở cuối chu kỳ tăng trưởng kinh tế và bắt đầu của xu hướng khủng hoảng tài chính toàn cầu, dẫn đến tính thanh khoản của thị trường chứng khoán thấp nên hiệu quả đầu tư không cao hoặc không có hiệu quả.
– Việc tuân thủ các quy định của Nhà nước trong công tác quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại nhiều tập đoàn, tổng công ty chưa cao, chế độ báo cáo thường xuyên, định kỳ chưa đầy đủ, không đúng thời gian quy định, chất lượng báo cáo không đảm bảo yêu cầu, thiếu số liệu để so sánh, đánh giá việc sử dụng vốn, tài sản. Thậm chí một số trường hợp báo cáo thiếu trung thực.
– Chưa kiên quyết xử lý những doanh nghiệp không báo cáo đầy đủ, kịp thời hoặc nhiều năm liên tục có sai sót trong công tác quản lý, điều hành, bị xếp loại doanh nghiệp không hoàn thành nhiệm vụ, làm giảm hiệu lực pháp lý của các chế tài đã được Nhà nước quy định. Một số tổng công ty kinh doanh thua lỗ liên tục, kéo dài nhưng Hội đồng quản trị (nay là Hội đồng thành viên) hoặc Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Giám đốc không bị xử lý trách nhiệm.
III. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIAI ĐOẠN 2011 – 2015
Thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo hướng xác định đúng vai trò của doanh nghiệp nhà nước, đổi mới cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào các ngành nghề kinh doanh chính, sắp xếp và tái cơ cấu từng tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo hướng tăng cường minh bạch, hiệu quả, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
1. Về cơ chế, chính sách
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá XI; Nghị quyết số 94/NQ-CP ngày 27/9/2011 Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2011; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 23/02/2010 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 42/2009/QH12 ngày 27/11/2009 của Quốc hội về nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, trong thời gian từ nay đến năm 2015 các Bộ, ngành theo chức năng nhiệm vụ được giao nghiên cứu trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách sau:
a) Nghị định của Chính phủ về thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu và phần vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác.
Tại Nghị định này, Chính phủ thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, của Bộ quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp trong công tác đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
b) Nghị định của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu. Đề án này, Bộ Tài chính dự kiến trình Chính phủ Quý IV/2011.
Nội dung cơ bản của Nghị định sẽ quy định phạm vi, đối tượng được Nhà nước đầu tư vốn, hình thức đầu tư vốn; quy định về quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu, trong đó quy định rõ ràng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng vốn tài sản của doanh nghiệp, việc huy động vốn, đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp, việc phân phối thu nhập… trong đó quy định các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu không được đầu tư vào những lĩnh vực: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán. Các doanh nghiệp đã đầu tư vào lĩnh vực này có trách nhiệm hoàn thành việc thoái vốn trước ngày 31/12/2015.
Sau khi thực hiện từ 2 – 3 năm, Chính phủ sẽ tổng kết rút kinh nghiệm để nghiên cứu trình Quốc hội ban hành Luật Đầu tư vốn nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
c) Nghị định của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC).
d) Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 nhằm tháo gỡ, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
đ) Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 quy định việc áp dụng Luật cán bộ, công chức đối với các chức danh lãnh đạo công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu và người đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước.
e) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; Cơ chế giám sát tài chính đối với các tập đoàn, tổng công ty lớn; Quy định cụ thể chế độ báo cáo và công khai, minh bạch kết quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đề án này, Bộ Tài chính đã cơ bản hoàn thành, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 12/2011.
Quy chế sẽ khắc phục những bất cập trước đây và đạt được những mục tiêu đó là: đánh giá được thực trạng tài chính của doanh nghiệp, phát hiện nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến rủi ro về tài chính để cảnh báo với cơ quan chủ sở hữu vốn của doanh nghiệp, đồng thời gắn quyền lợi và trách nhiệm của từng chủ thể trong việc giám sát doanh nghiệp.
g) Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế quản lý, sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp.
h) Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 32 phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp do Nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước và sẽ hoàn thành việc phê duyệt đối với các đơn vị còn lại trong năm 2011.
Ngoài ra, các Bộ, ngành chức năng cần nghiên cứu để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các các cơ chế, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tế, để các doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, bình đẳng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, như: quy định về sản xuất và cung ứng dịch vụ, sản phẩm công ích; quy định về tiền lương, thưởng đối với doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu.
i) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng Đề án Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trình Chính phủ trong quý I/2012 phê duyệt để triển khai từ năm 2012.
k) Sắp xếp, tái cơ cấu từng tập đoàn, tổng công ty lớn, đánh giá và xác định lại vị trí của từng tập đoàn, tổng công ty trong từng ngành cụ thể.
Các quy định trên sau khi được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành sẽ tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp an ninh, quốc phòng, cung ứng dịch vụ, sản phẩm công ích do Nhà nước làm chủ sở hữu hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
2. Tổ chức thực hiện
Tiếp tục xác định vai trò, vị trí của doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu mà nòng cốt là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong nền kinh tế. Trong đó:
a) Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; các doanh nghiệp an ninh, quốc phòng do Nhà nước làm chủ sở hữu cung ứng dịch vụ, sản phẩm công ích có trách nhiệm sản xuất, cung ứng các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững.
b) Xây dựng Quy chế quản lý tài chính của tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thực thi nghiêm các quy định về giám sát tài chính, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa các rủi ro về tài chính. Chấp hành chế độ báo cáo tài chính theo nguyên tắc công khai, minh bạch tình hình tài chính của doanh nghiệp ra công chúng.
c) Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển 5 năm và phương án sản xuất kinh doanh hàng năm trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
d) Từng tập đoàn, tổng công ty nhà nước xây dựng đề án tái cấu trúc trên cơ sở đề án được Chính phủ phê duyệt.
đ) Rà soát, điều chỉnh lại danh mục đầu tư, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động để điều chỉnh cho phù hợp với nhiệm vụ, chiến lược phát triển ngành nghề kinh doanh được chủ sở hữu giao.
e) Tập trung nguồn vốn đầu tư các công trình trọng điểm để phát huy tối đa hiệu quả các dự án, công trình phục vụ phát triển kinh tế xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Tiếp tục cắt giảm hoặc dừng việc mua sắm, xây dựng trụ sở mới, đất đai, bất động sản, phương tiện, thiết bị phục vụ gián tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh để tập trung nguồn lực cho các dự án có hiệu quả, cần thiết cho xã hội.
g) Thực hiện các biện pháp tiết giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra những hàng hoá tốt, mang “thương hiệu Việt”, có tính cạnh tranh cao để thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Củng cố năng lực quản trị doanh nghiệp. Chủ động đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu.
3. Về sắp xếp lại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ và các doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu
a) Các Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 4/03/2011 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước để chỉ đạo và thực hiện kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp thuộc mình quản lý giai đoạn 2011 – 2015 theo đề án phê duyệt tổng thể của Thủ tướng Chính phủ.
Đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, kể cả các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ. Chỉ duy trì những doanh nghiệp thuộc ngành, lĩnh vực then chốt; làm nhiệm vụ an ninh, quốc phòng; cung ứng các dịch vụ, sản phẩm công ích thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc các lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không thể tham gia.
b) Các Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ với tư cách là chủ sở hữu vốn tại các doanh nghiệp đã cổ phần hoá tiếp tục rà soát, bán bớt hoặc bán hết vốn tại các doanh nghiệp không cần duy trì vốn góp, tập trung nguồn vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh chính được chủ sở hữu vốn giao.
c) Các tổng công ty, công ty mẹ, các công ty TNHH một thành viên độc lập có quy mô nhỏ nếu chưa thực hiện cổ phần hoá hoặc không thuộc diện cổ phần hoá, thì thực hiện sáp nhập vào các tập đoàn, tổng công ty có cùng ngành nghề để trở thành các tập đoàn kinh tế có quy mô lớn, đủ mạnh để thực hiện sản xuất kinh doanh, cạnh tranh theo cơ chế thị trường và thực hiện các nhiệm vụ của chủ sở hữu giao.
Trên đây là nội dung báo cáo của Chính phủ về thực trạng hoạt động của tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2006 – 2010 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2011 – 2015.